Bộ Công Thương đề xuất giữ quỹ bình ổn giá nhưng sửa đổi quy định trích lập, chi dùng khi giá xăng dầu biến động tăng từ 10% trở lên hoặc giảm từ 7% trở lên.
Bộ Công Thương đề xuất giữ quỹ bình ổn giá nhưng sửa đổi quy định trích lập, chỉ dùng khi xăng dầu biến động tăng từ 10% trở lên hoặc giảm từ 7% trở lên.
Bộ Công Thương vừa đưa dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều nghị định 95/2021 và nghị định 83/2013 về kinh doanh xăng dầu để lấy ý kiến. Tại dự thảo này, Bộ Công Thương cho rằng không nên bỏ quỹ bình ổn giá xăng dầu như một số đề xuất trước đó.
"Do quỹ bình ổn giá là công cụ linh hoạt duy nhất để Nhà nước có thể điều hành mức tăng giảm giá xăng dầu trong từng kỳ điều hành. Nếu bỏ quỹ bình ổn giá sẽ đồng nghĩa với việc bỏ điều hành giá xăng dầu", dự thảo của Bộ Công Thương nêu.
Vẫn theo Bộ này, thời gian qua, quỹ bình ổn giá xăng dầu đã được sử dụng nhất quán cho mục tiêu bình ổn giá xăng dầu theo đúng quy định của pháp luật. Việc sử dụng quỹ đã phát huy tác dụng tích cực và hiệu quả trong việc tạo nên một “bước đệm" nhằm góp phần bình ổn giá (giữ ổn định hoặc giảm mức tăng) trong trường hợp cần thiết, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và ổn định an sinh xã hội.
Từ đó, Bộ Công Thương đề xuất ba phương án quy định đối với quỹ bình ổn giá xăng dầu. Theo đó, phương án đầu tiên là giữ nguyên quy định về quản lý quỹ bình ổn giá hiện hành. Phương án này có ưu điểm là Nhà nước duy trì được một công cụ điều hành giá khá linh hoạt, không phát sinh chi ngân sách và bộ máy vận hành, bảo đảm can thiệp bình ổn giá xăng dầu một cách hiệu quả, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhưng phương án này có nhược điểm là quỹ bình ổn giá được hình thành dựa trên mức ứng trước trong giá xăng dầu khi giá thấp để bù vào khi giá tăng cao nên khi giá thế giới giảm, giá xăng dầu trong nước cũng được điều chỉnh giảm nhưng mức giảm không tương ứng (một phần giảm đã được trích vào quỹ bình ổn giá) dẫn đến những thắc mắc từ phía người tiêu dùng. Trường hợp số dư quỹ bình ổn giá âm, doanh nghiệp phải vay vốn để bù đắp, ngân hàng thương mại không có cơ chế tin dụng riêng hỗ trợ doanh nghiệp, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Phương án thứ hai là giữ quỹ bình ổn giá nhưng sửa đổi theo hướng quy định nguyên tắc sử dụng công cụ quỹ cụ thể. Theo đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ can thiệp điều hành giá thông qua việc điều chỉnh mức trích lập, chi quỹ bình ổn giá khi giá xăng dầu công bố kỳ này so với kỳ công bố giá liền trước có biến động tăng từ 10% trở lên hoặc giảm từ 7% trở lên.
Phương án này để vừa bảo đảm Nhà nước có thể điều hành khi cần thiết nhưng giảm dần sự can thiệp của Nhà nước vào giá xăng dầu. Nhà nước vẫn có công cụ để điều hành giá xăng dầu khi cần thiết nhằm thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời có sự điều chỉnh theo hướng giảm dần sự can thiệp của Nhà nước vào giá xăng dầu trên thị trường, đưa mặt hàng xăng dầu dần vận hành theo thị trường.
Tuy vậy các doanh nghiệp tiếp tục phải thực hiện việc trích lập và chỉ sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu theo chỉ đạo điều hành của Nhà nước; giá xăng dầu tiếp tục có sự can thiệp của Nhà nước nên sẽ có những ý kiến thắc mắc, thậm chí không đồng thuận nhất định khi Nhà nước thực hiện việc điều hành giá chưa phù hợp với lợi ích của một số doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng (khi giá tăng không được tăng hết hoặc khi giá giảm không được giảm hết theo biến động của thế giới).
Phương án cuối cùng là bỏ quỹ bình ổn giá xăng dầu, Nhà nước chỉ quy định công thức tính giá chung, công bố một số khoản trong cơ cấu giả định hướng (gồm giả thế giới, các loại thuế, phi thu vào ngân sách Nhà nước), doanh nghiệp tư xác định chi phi thực tế của doanh nghiệp cùng với các yếu tố do Nhà nước công bố để tính giá bán xăng dầu của đơn vị mình ra thị trường và tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của các mức chi phi phát sinh trước pháp luật. Nhà nước thực hiện hậu kiểm để giám sát việc xác định các mức chi phí nếu trên.
Phương án này giúp tạo sự linh hoạt hoàn toàn cho doanh nghiệp, giá bản xăng dầu phù hợp với các chi phí phát sinh của từng doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp bảo đảm duy trì hoạt động kinh doanh và cung cấp xăng dầu ổn định hơn cho thị trường; tăng mức độ cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Nhà nước không có công cụ để can thiệp và điều tiết để điều hành kinh tế vĩ mô chung (do xăng dầu là đầu vào quan trọng của đời sống kinh tế xã hội), đặc biệt khi giá xăng dầu tăng cao hoặc vào những giai đoạn nhạy cảm như lễ, Tết, thị trường có nhiều biến động, khiến giá của các mặt hàng khác nhau tăng theo (do tại Việt Nam có hiện tượng “lạm phát kỳ vọng”, “lạm phát tâm lý”) và khi giá xăng dầu giảm thì giá các mặt hàng khác lại không giảm theo tương ứng.
Tại một số địa bàn có mức độ cạnh tranh thấp, không khuyến khích các doanh nghiệp tiết giảm chi phí để giảm giá bán cho người tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp có thể câu kết với nhau để cùng tăng giá bán, ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng.
Bộ Công Thương đề xuất lựa chọn phương án thứ hai, tức là tiếp tục giữ quỹ bình ổn giá, tuy nhiên có quy định cụ thể về các trường hợp phải sử dụng quỹ (trích lập và chi). Đồng thời công thức giá có sự thay đổi theo hướng Nhà nước chỉ công bố giá định hướng gồm các yếu tố về giá thế giới, các loại thuế, lợi nhuận định mức, các chi phi khác do doanh nghiệp tự xác định và chịu trách nhiệm trước các cơ quan kiểm toán.
"Lựa chọn phương án này để bảo đảm giá xăng dầu dẫn theo thị trường, phản ánh đủ chi phí phát sinh của doanh nghiệp, hài hòa lợi ích giac các chủ thể, giúp duy trì nguồn cung ổn định cho thị trường", Bộ Công Thương nhấn mạnh.
Nguồn Sức Khỏe Đời Sống